Hoạt động
NHCSXH ở khắp các xã, phường, thị trấn trong cả nước đã và đang giúp người
nghèo tạo sinh kế bền vững
Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đã nhận định rất
đúng rằng: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng XHCN
trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất
chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong
suốt quá trình phát triển”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ, đây là chủ
trương nhất quán trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Chính vì vậy,
Đảng, Nhà nước ta đã quyết định thành lập Ngân hàng Phục vụ người nghèo -
NHCSXH - để thực hiện tín dụng chính sách xã hội cho phát triển sản xuất, tạo
sinh kế, việc làm và đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong đời sống của người nghèo
và các đối tượng chính sách khác. Chính vì vậy, tín dụng chính sách xã hội có
vai trò to lớn trong việc vừa thúc đẩy kinh tế phát triển, vừa giữ vững định hướng
XHCN của việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Công cụ, giải pháp quan trọng của Đảng, Nhà nước thực hiện giảm
nghèo bền vững
Theo báo cáo
của NHCSXH và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội “Về chính sách tín dụng ưu
đãi, đến 31/12/2022, tổng dư nợ đạt trên 283 nghìn tỷ đồng với hơn 6,5 triệu hộ
nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác còn dư nợ; xây dựng hơn
1,4 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn; xây dựng khoảng
13 nghìn căn nhà ở cho hộ nghèo và nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp”. Đến
ngày 31/12/2022, toàn hệ thống NHCSXH thực hiện giải ngân các chính sách cho
vay ưu đãi theo Nghị quyết số 11/NQ-CP đạt trên 16 nghìn tỷ đồng; giải ngân số
vốn vay các chương trình tín dụng chính sách được hỗ trợ lãi suất hơn 93 nghìn
tỷ đồng, cho trên 2,2 triệu khách hàng. NHCSXH đã thực hiện hỗ trợ lãi suất 2%
đối với các khoản vay có lãi suất cho vay trên 6%/năm, tổng số tiền hỗ trợ là
878 tỷ đồng.
Thực tế cho
thấy hộ nghèo, cận nghèo được tiếp cận tín dụng chính sách xã hội ngày càng nhiều
hơn, dư nợ bình quân trên hộ cũng tăng lên, số dư nợ để sản xuất kinh doanh, học
nghề, xuất khẩu lao động cũng tăng hơn. Chính sự hỗ trợ kịp thời của tín dụng
chính sách xã hội đã tạo điều kiện cho hộ nghèo, đối tượng chính sách xã hội tạo
sinh kế, việc làm, ổn định đời sống, giảm nghèo thực chất. Ngoài ra, tín dụng
chính sách xã hội còn tạo điều kiện giúp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững,
hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo mới; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên
mức sống tối thiểu, tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa
chiều quốc gia. Ngoài ra, chúng ta còn thấy tín dụng chính sách xã hội giúp hộ
nghèo và các đối tượng chính sách tăng khả năng tích lũy tài sản, chống chịu được
trước những cú sốc kinh tế. Đồng thời, tạo niềm tin thúc đẩy nhu cầu đầu tư,
kinh doanh, cải thiện năng suất lao động tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng
xa. Trong 10 năm từ 2011 - 2020, đã có trên 21,6 triệu lượt hộ nghèo và các đối
tượng chính sách khác được vay vốn, với doanh số cho vay các chương trình tín dụng
chính sách đạt 509.020 tỷ đồng. Nguồn vốn tín dụng ưu đãi đã phát huy hiệu quả
kinh tế - xã hội, góp phần giúp trên 3,7 triệu lượt hộ vượt qua ngưỡng nghèo;
thu hút, tạo việc làm cho hơn 2 triệu lao động từ Quỹ Quốc gia về việc làm;
giúp 1,5 triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập;”.
Cùng với những công cụ khác thì tín dụng chính sách xã hội là công cụ thiết thực,
hiệu quả giảm nghèo bền vững. Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần giảm tỷ lệ
hộ nghèo trong giai đoạn 2011 - 2015 từ 14,2% (năm 2010) xuống 4,25% (năm
2015); trong giai đoạn 2016 - 2020, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 9,88% (đầu
năm 2016) xuống còn 3,75% (năm 2019), dưới 3% (năm 2020). Qua đó góp phần giữ vững
định hướng XHCN của phát triển kinh tế thị trường.
Giúp người nghèo, các đối tượng chính sách tiếp cận được tài chính
phù hợp, tin cậy, tránh được “tín dụng đen”
Chúng ta đều
rõ, lợi dụng những hoàn cảnh khó khăn của một số hộ, đã xuất hiện “hình thức
cho vay tín dụng với lãi suất cao hơn quy định của pháp luật từ các tổ chức, cá
nhân thực hiện các hoạt động cho vay tiền nhưng không đăng ký kinh doanh và
không được sự cấp phép của nhà nước”. Bi kịch của người có thu nhập thấp, người
nghèo, hộ nghèo cũng chính là thị trường béo bở cho các hoạt động tín dụng nhất
là “tín dụng đen”. Phương thức cho vay kiểu “tín dụng đen” đã gây ra những hệ lụy
khôn lường, nhiều người nghèo càng trở nên nghèo hơn. Vay tín dụng đen sẽ tạo
ra những khoản nợ lớn hơn rất nhiều lần so với số tiền vay ban đầu. Điều này sẽ
khiến cho người vay không có đủ khả năng chi trả, mất khả năng chi trả khi số nợ
quá lớn. Lúc này, người vay tiền tín dụng đen sẽ bị uy hiếp, khủng bố, đe dọa,
tung hình ảnh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm… Làm ảnh hưởng đến cuộc sống và
cả tính mạng của bản thân và những người thân xung quanh. Từ đây gây ra bất ổn
xã hội, làm mất an ninh, an toàn trật tự xã hội, ảnh hưởng xấu đến phát triển
kinh tế - xã hội. Do vậy, tín dụng chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan
trọng, giúp những hộ nghèo không mắc vào bẫy “tín dụng đen”. Bởi lẽ, tín dụng
chính sách xã hội thông qua NHCSXH với nhiều chương trình tín dụng cho người
nghèo, các đối tượng chính sách khác vay. Hơn nữa, NHCSXH có tới trên 10.400 Điểm
giao dịch xã, mạng lưới rộng khắp cả nước và thực hiện ủy thác một số công đoạn
trong quy trình cho vay thông qua bốn tổ chức chính trị - xã hội gồm: Hội Nông
dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nên các hộ nghèo, hộ cận nghèo, những đối
tượng chính sách có cơ hội tiếp nhận dịch vụ của tín dụng chính sách xã hội một
cách nhanh chóng, thuận lợi.
Đồng thời,
NHCSXH đã phối hợp với chính quyền cấp xã, các tổ chức chính trị - xã hội thành
lập, quản lý trên 168 nghìn Tổ tiết kiệm và vay vốn đến 100% thôn, ấp, bản,
làng, phum, sóc, tổ dân phố trên toàn quốc. Có thể nói, Tổ tiết kiệm và vay vốn
là cầu nối giữa ngân hàng với người nghèo, hộ nghèo và các đối tượng chính sách
vay vốn, đã góp phần chuyển tải nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ đến
đúng các đối tượng được thụ hưởng kịp thời, tiết giảm chi phí cho người vay.
Trên cơ sở đó, người nghèo và các đối tượng chính sách khác có cơ hội thoát khỏi
bẫy “tín dụng đen”. Như vậy, vừa góp phần ổn định, phát triển kinh tế, vừa góp
phần ổn định chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó, giữ vững định hướng XHCN trong
phát triển kinh tế thị trường.
Giúp người nghèo tiếp cận được tài chính cho việc nâng cao sức sản
xuất, tạo sinh kế phát triển bền vững
Theo Báo cáo
của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đến 31/12/2022 tín dụng chính sách xã
hội góp phần hỗ trợ đầu tư sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho trên 867 nghìn
lao động, trong đó có trên 7 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài; giúp trên 62 nghìn lượt học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được
vay vốn học tập, giúp mua gần 87 nghìn máy vi tính, thiết bị học trực tuyến. Vốn
tín dụng chính sách xã hội được đầu tư cho đào tạo nghề, phát triển sản xuất, tạo
sinh kế, tạo việc làm cho các đối tượng là thanh niên tập trung chủ yếu vào 6
chương trình tín dụng lớn như: Chương trình tín dụng hộ nghèo; Chương trình tín
dụng hộ cận nghèo; Chương trình tín dụng hộ mới thoát nghèo; Chương trình cho
vay giải quyết việc làm; Chương trình tín dụng đối với vùng khó khăn; Chương
trình tín dụng học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Qua đây cho thấy, tín
dụng chính sách xã hội đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho chính các đối tượng
nghèo và chính sách xã hội, giúp cho một số người có cơ hội đầu tư sản xuất
kinh doanh, số khác thì học nghề để có thể kiếm việc làm, số nữa thì đi lao động
có thời hạn ở nước ngoài vừa tăng thu nhập vừa trau dồi tay nghề; học sinh,
sinh viên khó khăn thì được hỗ trợ vay học tập để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Riêng năm 2022, nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã hỗ trợ, tạo
việc làm cho gần 879 nghìn lao động, giúp trên 7,5 nghìn lao động đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài; giúp gần 70 nghìn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh
khó khăn vay vốn học tập. Tín dụng chính sách cũng đã giải ngân cho gần 86
nghìn hộ gia đình vay vốn mua máy vi tính, thiết bị học tập; giúp gần 1,1
nghìn doanh nghiệp vay vốn để phục hồi sản xuất kinh doanh, trả lương cho gần
155 nghìn người lao động bị ảnh hưởng dịch COVID-19. Vốn tín dụng chính sách xã
hội đã tham gia xây dựng gần 1,5 triệu công trình nước sạch, công trình vệ
sinh; xây dựng gần 1,6 nghìn căn nhà ở cho hộ nghèo ổn định cuộc sống, trên
11,2 nghìn căn nhà ở xã hội cho các đối tượng thu nhập thấp.
Tín dụng
chính sách xã hội còn góp phần giúp những hộ nghèo, cận nghèo có điều kiện khai
thác tiềm năng đất đai; nâng cao chất lượng lao động thông qua các quỹ dạy nghề,
chuyển giao kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, khai thác tài nguyên thiên nhiên hợp
lý để phát triển các sản phẩm truyền thống (sản phẩm OCOP), sản phẩm mới, góp
phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho người nghèo lao động ở
nông thôn, góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới tại các địa phương
trên cả nước. Trên cơ sở đó giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế
thị trường trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Bảo đảm an sinh xã hội, trên cơ sở đó giữ vững định hướng XHCN
trong phát triển kinh tế thị trường
An sinh xã hội
là hệ thống chính sách, chương trình của Nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm
giúp đỡ toàn xã hội, nhất là các cá nhân không may mắn, không may gặp rủi ro hoặc
biến cố xã hội để bảo đảm mức sống tối thiểu và nâng cao đời sống của họ. Hiện
nay, ở Việt Nam có bốn trụ cột chính sách an sinh xã hội: (i) Chính sách đảm bảo
việc làm, tạo thu nhập và giảm nghèo nhằm hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa
các rủi ro trên thị trường lao động thông qua các chính sách đào tạo kỹ năng
nghề nghiệp, tín dụng, tạo việc làm, thu nhập tối thiểu và giảm nghèo đơn chiều,
đa chiều, bền vững; (ii) Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm hỗ trợ người dân giảm
thiểu rủi ro về sức khỏe khi ốm đau, tai nạn, tuổi già và khi bị thất nghiệp
thông qua các hình thức, cơ chế bảo hiểm xã hội để bù đắp một phần thu nhập bị
mất hoặc bị suy giảm; (iii) Chính sách trợ giúp xã hội nhằm hỗ trợ đột xuất và
hỗ trợ thường xuyên cho người dân khắc phục các rủi ro khó lường, vượt quá khả
năng kiểm soát như mất mùa, đói nghèo; (iv) Chính sách dịch vụ xã hội cơ bản -
trụ cột an sinh xã hội nhằm hỗ trợ người dân tiếp cận hệ thống các dịch vụ xã hội
cơ bản ở mức tối thiểu bao gồm y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin truyền
thông, trợ giúp pháp lý. Trụ cột này thể hiện rất rõ yếu tố “mô hình sàn an
sinh xã hội” khi xây dựng, ban hành và thực hiện các chính sách an sinh xã hội ở
Việt Nam hiện nay.
Tín dụng
chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước ta tham gia vào cả bốn trụ cột chính sách
này của hệ thống an sinh xã hội Việt Nam. Đồng thời, để bảo đảm giữ vững định
hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường, Đảng, Nhà nước ta thực hiện
“Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện
chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống
an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”. Như vậy, phân phối trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN vừa tuân theo quy luật thị trường (theo kết quả lao động, hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác) vừa dựa
trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của XHCN
(phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội). Để thực hiện
phân phối theo hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội thì Nhà nước phải thông
qua các Quỹ, các Chương trình phát triển, qua NHCSXH,… thực hiện tín dụng chính
sách xã hội. Do vậy, tín dụng chính sách xã hội ở Việt Nam giúp bảo đảm an sinh
xã hội, trên cơ sở đó giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường.
Bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, trên cơ sở đó giữ vững định hướng
XHCN trong phát triển đất nước
Chúng ta đều
rõ, đói nghèo, bệnh tật và bất an xã hội là những nguyên nhân chủ yếu của bất ổn
chính trị - xã hội. Do vậy, để bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, các quốc gia
cùng với các chính sách khác thì phải tăng cường phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống của nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà kết hợp tăng trưởng
kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội lại trở thành một chủ trương nhất
quán của Đảng ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, đúng như Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi
đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu
nghèo và bất bình đẳng xã hội”. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là “không chờ
kinh tế phát triển cao rồi mới giải quyết các vấn đề xã hội, mà ngay trong từng
bước và suốt trong quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội”. Nhờ thực hiện nhất quán quan điểm, chủ trương này
mà “Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được phát triển. Giảm nghèo nhanh và
bền vững hơn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. An sinh xã hội, phúc lợi xã
hội từng bước được nâng cao”. Nhờ sự nỗ lực, phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân, trong đó có tín dụng chính sách xã hội mà “Tỷ lệ hộ nghèo trung bình
mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn
nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao
hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông
thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và
trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm
giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành
xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học
cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm
qua. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế
miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần
ba lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi
năm 2020”. Chính nhờ những thành tích này mà chúng ta vừa giữ vững được tốc độ
tăng trưởng kinh tế vừa giữ vững được ổn định chính trị - xã hội. Trên cơ sở
này giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường.
Qua trên
chúng ta thấy tín dụng chính sách xã hội ở Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng
như: Một công cụ, giải pháp quan trọng của Đảng, Nhà nước thực hiện giảm nghèo bền
vững; giúp hộ nghèo, hộ chính sách tránh được “tín dụng đen”; nâng cao sức sản
xuất, tạo sinh kế phát triển bền vững; giúp bảo đảm an sinh xã hội; bảo đảm ổn
định chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó, giữ vững định hướng XHCN trong phát triển
kinh tế thị trường ở Việt Nam.
GS,
TS. Trần Văn Phòng
Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung
ương, Nguyên Viện trưởng viện Triết học
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh